Bát Phong là gì? Làm sao đạt được Bát Phong xuy bất động?

Tác giả Định Tuệ

Bát phong là tám ngọn gió đời, thổi rất mạnh làm cho cuộc sống con người bị xáo trộn. Tám ngọn gió này gồm: lợi – suy, hủy – dự, xưng – cơ, khổ – lạc.

Bát phong có nghĩa là tám ngọn gió, thổi rất mạnh làm cho cuộc sống con người bị xáo trộn, ảnh hưởng đến đời sống, nếu con người không bị tám ngọn gió này làm dao động thì cuộc sống rất bình thường. Tám ngọn gió này gồm: “lợi-suy, hủy-dự, xưng-cơ, khổ-lạc”, là lợi dưỡng – suy hao, hủy báng – tán thán, tôn kính – chê bai, đau khổ – vui mừng, hay còn gọi là được – mất, khen – chê, tốt – xấu, khổ đau – hạnh phúc. Tám ngọn gió làm cho chúng ta quay cuồng trong thế gian này.

Tám ngọn gió ảnh hưởng con người như thế nào? Có một câu chuyện rất thú vị, kể về ông Tô Đông Pha và Ngài Phật Ấn sống vào khoảng thời Tống, cuối thế kỷ 11. Ông Tô Đông Pha là một thi sĩ danh tiếng, không chỉ là một nhà thơ mà còn là nhà nghiên cứu Phật học rất uyên bác. Ông rất tự hào về văn sĩ, thư sĩ và cả hiểu biết Phật học của mình. Ông giao thiệp với thiền sư Phật Ấn. Hai Ngài rất thân thiết và thường trao đổi Phật học với nhau. Vào một ngày kia ông qua thăm Ngài Phật Ấn, vì Phật sự nên Ngài Phật Ấn không có ở chùa. Ông chờ đợi rất lâu nên làm bài thơ:

Khể thủ thiên trung thiên
Hào quang chiếu đại thiên
Bát phong suy bất động
Đoạn tỏa tử kim liên.

Ông muốn nói rằng đức Phật Thích Ca là một vị giác ngộ, hào quang của Ngài chiếu khắp nơi và tám ngọn gió không làm cho lay chuyển, vẫn bất động. Ông để lại bài thơ trước khi ra về với ẩn ý muốn nói cho người bạn biết tôi cũng vậy, tôi cũng hiểu bát phong nên bất động, bây giờ tám ngọn gió chả ảnh hưởng gì tới tôi cả.

Chiều Ngài Phật Ấn về thảo đường thấy bài thơ liền cầm bút phê hai chữ là “Hạ Phong”, có nghĩa là gió thấp, bảo tiểu đồng đem qua cho Tô Đông Pha, sau khi nhận được hai chữ “hạ phong”, ông tức quá vội vàng chèo xuồng qua gặp Ngài Phật Ấn, tôi làm bài thơ ca ngợi đức Phật Thích Ca là người giác ngộ đối với tám ngọn gió không còn để trong lòng nữa. Tại sao Ngài ghi hai chữ “Hạ Phong”, Ngài Phật Ấn cười nói rằng tám ngọn gió thổi ông Tô Đông Pha trơ trơ bất động, mà chỉ có ngọn gió lè tè dưới đất thổi nhẹ một cái, mà ông chèo xuồng từ bên kia sông qua bên này để mà cãi lý. Khi Tô Đông Pha nghe tới đó thì giật mình cũng vì cái tôi, cái ngã của mình cao quá. Nói lý thuyết thì dễ, bát phong bất động, đến khi có ngọn gió phẩn phớt qua một cái khiến mình nổi sân lên liền. Nhân tiện đó Ngài Phật Ấn cũng tặng Tô Đông Pha hai câu.

Hữu phong bất động, vô phong động.
Bất động vô phong, động hữu phong.

Hữu phong là có gió bất động, vô phong là không có gió thì động, ông nói rằng ông có gió thì bất động, tôi đâu cần gió gì chỉ cần hai chữ “Hạ Phong” là ông động phải chèo xuồng từ bên kia qua đây. Giáo pháp của Đức Phật là những lời dạy từ những thực chứng thiết thực nên người học phải thực hành mới chứng thực được. Mình nói là vô thường, khổ, vô ngã nhưng có điều người thân của mình vì một lý do gì đó rời bỏ mình ra đi thì khóc bù loa, bù lu và đau khổ. Thành ra giáo lý nhà Phật đọc thì dễ hiểu, nhưng thực hành được hay không là một chuyện khác. Văn rồi tư, khi tư rồi mới bắt đầu tu tập cho đến khi giải thoát, chưa tu mà mới hiểu không cũng là con số không.

1. Lợi Suy – được và mất

Lợi – Suy, còn gọi là được và mất. Lợi là lợi dưỡng, lợi lộc, lợi danh gọi chung là được. Suy là suy hao, suy tàn hay gọi là mất. Khi mất việc, của cải, tài sản, thì buồn chẳng muốn làm gì cả. Khi mình cưới được một người mình yêu thương mặt mày tươi rói, đi ra, đi vào, huýt sáo, ca hát. Nhưng người thương mình ra đi, thì lúc đó mình buồn ủ rũ. Trong cuộc đời này khi mở mắt ra là được và mất luôn luôn theo chúng ta, khi trúng số, con mình thi đậu là được. Khi mất tiền, mình thua gọi là mất. Đức Phật không bao giờ dạy mình tìm cái được cả, vì mình tìm cái được khi mình mất sẽ đau khổ. Hai ngọn gió này khi mình làm được nó thổi mình lên tận mây xanh, khi mình suy tàn sẽ rơi xuống dưới đất. Ngọn gió này đánh con người tơi tả, hàng ngày, hàng giờ. Khi có công ăn việc làm và mất công ăn việc làm, mất tiền, hết tiền, có người thân, mất người thân. Ngọn gió này làm cho con người quay cuồng trong cuộc sống. Có một ông Bà La Môn đi đến gặp Đức Phật hỏi rằng: Bạch Đức Thế Tôn khi giác ngộ Ngài đạt được cái gì và mất cái gì. Đức Phật trả lời, Như Lai mất đi một cái đó là cái ngã. Như Lai được cái có sẵn trong con người đó là cái tâm thanh tịnh. Đức Phật Ngài muốn nói rằng cái tâm thanh tịnh lại có sẵn trong con người của mỗi chúng ta.

Có một ông họ Tái, cho nên người ta gọi là Tái ông; một hôm con ngựa yêu quý và tốt nhất trong nhà ông nó lạc đi đâu mất, tức là bị mất. Vậy hàng xóm mới đến chia buồn và nói, “Tội nghiệp ông cụ quá, người nhân từ phúc hậu như vậy có con ngựa quý mà mất.”

Tái ông mỉm cười và nói, “Cũng chưa chắc, biết đâu trong cái rủi, có cái may.”

Mà may thiệt, vài bữa sau con ngựa đi lạc đi trở về và dắt theo con ngựa còn đẹp hơn nữa, là ngựa bạn của nó. Khi đó hàng xóm đến chúc mừng, và nói, “Đúng là người có phước, tưởng đâu là mất hóa ra còn được con ngựa khác.”

Nghe vậy, ông cụ cười và nói, “Cũng chưa chắc, biết đâu trong cái may có cái rủi!”

Và rủi thiệt, là người con trai độc nhất của ông thấy con ngựa mới về hay quá, tốt quá, cho nên cậu mới leo lên cưỡi và té xuống bị gãy chân. Khi đó, hàng xóm mới đến chia buồn, nói, “Tội nghiệp ông cụ quá, có một người con trai mà bây giờ bị gãy chân, có tật; như vậy là rủi phải không?”

Thì ông cụ nói, “Chưa chắc, biết đâu trong cái rủi có cái may!”

Mà may thiệt; khi đó, nhà vua bắt thanh niên đi lính thú, thì cậu con trai này nhờ bị gãy chân cho nên được ở nhà và sống với cha già trọn vẹn.

Chuyện đó còn kéo rất dài. Cho nên theo luân lý của Đông phương là khoan mừng và khoan buồn, tại vì trong cái may có cái rủi, trong cái rủi có cái may.

Riêng trong nhà Thiền, Tổ Bồ Đề Đạt Ma có dạy là khi chúng ta gặp chuyện bất như ý thì ngay khi đó, chúng ta nên tu hạnh báo oán, tức là nghĩ rằng chuyện đó không phải khi không mà có, mà do cái duyên xấu của mình. Thì thôi, hồi trước mình gieo nhân xấu, bây giờ mình chịu quả xấu, cho nên gặp khổ không buồn, hay là gặp những điều bất như ý, chúng ta không buồn; còn khi chúng ta gặp cái may mắn thì cũng khoan mừng, tại vì cái này là do phước báu của mình, còn phước thì mình hưởng, hết phước thì thôi. Thành ra được may mắn cũng không tự tôn, hay tự kiêu, đó gọi là tùy duyên hạnh. Hiểu được điều này thì đứng trước cái Được cái Mất, chúng ta sẽ tự tại.

2. Hủy Dự: Hủy báng – tán thán

Hủy và Dự, gọi là hủy báng và tán thán, cũng là khen – chê, chỉ lời nói mà làm cho chúng ta lên bờ, xuống ruộng rồi. Có một câu chuyện trong nhà thiền: Một vị tướng quân tới gặp vị thiền sư hỏi rằng: Bạch Ngài trong Phật giáo nói có Niết-bàn và có Địa Ngục, Ngài có tin không. Vị thiền sư nói, ôi giời ơi, ông nói tàm sàm, ba láp, làm gì có Niết-bàn, làm gì có Địa Ngục. Khi nghe thiền sư nói như vậy ông đùng đùng nổi nóng, quát tháo ra lệnh cho lính tới bắt vị thiền sư định chém đầu, thì vị thiền sư cười bảo đấy. Ông muốn hỏi tôi về Địa Ngục, thì có phải ông đang sống trong Địa Ngục không. Vị tướng quân lúc đó nghe vị thiền sư giải thích và quay qua xin lỗi và rất vui vẻ cảm ơn Ngài đã chỉ giáo cho. Vị thiền sư nói ông hỏi tôi Niết-bàn, ông đang sống trong Niết-bàn đó. Thành ra cái khen và chê nó làm cho con người sống trong Địa Ngục hay sống trong Niết-bàn tùy lúc, khen thì lên tận trời xanh sống, chê một cái bừng bừng nổi giận sống trong địa ngục.

Nói về khen và chê, tôi đọc trong kinh thấy chưa ai mà bị chê như Đức Phật hết, và trong Trường Bộ Kinh có ghi một câu chuyện:

Một hôm Đức Phật đi trước, có một đám sa môn ngoại đạo đi theo phía sau; những vị sa môn trẻ mới khen Đức Phật là một vị có trí huệ, biết bỏ cung vàng, điện ngọc, vợ đẹp, con xinh, để đi tu, và là một vị giáo chủ xứng đáng nhất của thời đó. Khi nghe như vậy, các vị tỳ kheo tùy tùng Đức Phật rất là khoái chí, tại vì người ta khen ông thầy mình, mình cũng được thơm lây.

Rồi lát sau gặp một người nói rằng, “Đức Phật là người phá hoại sự sống; trên đời này có những niềm vui là tài, là sắc, là ăn, là ngủ, thì ổng đã phủ nhận rồi; mà những người đi theo ổng, ổng cũng cấm không cho xài những thứ đó nữa, đó là điều thứ nhất. Điều thứ hai, Đức Phật là người phá hoại gia cang của người ta; ổng đi tới đâu thì vợ mất chồng, con mất cha, tại vì người ta bỏ đi tu theo ổng hết; và nhà tan, cửa nát, là cũng một tay ổng.”

Như vậy, mình thấy khen cũng có, chê cũng có. Nghe như thế đó, Đức Phật ngài vẫn bình tĩnh, trong khi đó các vị tỳ kheo rất là bực bội. Lúc đó Đức Phật mới dẫn các môn đệ ngồi xuống rồi Đức Phật mới thuyết một bài pháp như thế này, “Khi nghe lời khen tụi con khoan mừng, vì mừng thì sẽ mất bình tĩnh, mà hễ mất bình tĩnh thì không biết người ta khen đúng hay khen sai; và khi nghe người ta chê thì con đừng có buồn, vì buồn thì sẽ mất bình tĩnh, mà mất bình tĩnh thì không biết lời chê đó đúng hay sai.”

Thành ra chúng ta sống trên thế gian này, phải nghe lời khen tiếng chê để chúng ta biết mà sửa mình, nhưng phải bình tĩnh, nghĩa là khoan mừng, khoan buồn, khoan giận, khoan ghét, thì chúng ta mới sáng suốt để nhận thức được điều đó đúng hay sai, và chúng ta sẽ chỉnh những cái sai thành những cái đúng.

3. Xưng Cơ: Tôn kính – chê bai

Xưng và Cơ, có nghĩa tôn kính và chê bai, hay tốt và xấu. Vì vô minh nên con người chấp vào tự ngã, cái tôi, khu vườn này tôi xây dựng lên nên nó mới đẹp, ai mà chê khu vườn xấu thì tôi tức giận, thành ra một món đồ nào mà người ta nói món đồ này tốt thì mình vui vẻ, nếu nói món đồ này xấu thì ta bực mình tức giận. Cũng có câu chuyện nói rằng, một anh chàng cưới một cô vợ bị chột mắt, mọi người nói tội nghiệp anh quá. Thế anh trả lời là tội nghiệp quý vị thì có, vợ tôi có một mắt là đủ rồi, còn quý vị có hai con mắt nó dư một mắt thì tội nghiệp lắm. Như vậy chúng ta hiểu rằng như thế nào là tốt, như thế nào xấu là tùy theo quan niệm của mỗi người mà thôi.

Chuyện kể, có một vị hòa thượng có năm trăm đồ đệ, tuổi già, bệnh hoạn mà chưa có đồ đệ nào giác ngộ để nối pháp; bữa đó, ổng lập mưu để chọn nhân tài kế thế cho ông. Ông cứ lâu lâu lén giấu một món đồ trong chùa, rồi ông phao tin là mất, cho nên tăng chúng rất là hỗn loạn, vì cứ thấy mất tiền, mất đồ hoài, và ai cũng bực, muốn tìm cho ra tên ăn trộm trong chúng này.

Một bữa ông đang ngủ, ông la lên, “Ăn trộm, ăn trộm!”

Tên đệ tử cưng nhứt và mạnh dạn nhứt của ông đang ở bên ngoài, nghe vậy chạy vô thiệt lẹ. Ông thộp ngay cổ áo và nói, Bắt được rồi.”

Khi đó tên đệ tử nói, “Không, con nghe la ăn trộm, con chạy vô phụ thầy bắt ăn trộm.”

Ổng nói không, ổng bắt được rồi! Và khi đó mọi người lục tục kéo tới. Giả sử quý vị tới đây, thấy thầy nắm áo tôi, thầy nói bắt được tôi ăn trộm, quý vị tin lời thầy chứ đâu có tin lời tôi. Cho nên vị đệ tử này bị khai trừ ra khỏi chùa; và ông thầy còn viết giấy truyền cho các chùa xung quanh không được chứa, vì nó là cái tên mà bữa nay cháy nhà mới ra mặt chuột, lâu nay trong chùa mất không biết bao nhiêu đồ đạc, mà bữa nay mới bắt được quả tang.

Tên đệ tử, ngày hôm qua còn là thượng thủ trong chùa, còn là người mô phạm dạy dỗ em út, bữa nay bị mang tên là ăn trộm và bị đích thân thầy mình viết bảng và khai trừ. Nó đau khổ kinh khủng. Suốt ba ngày đau khổ như vậy, đi đứng nằm ngồi không yên gì hết, bao nhiêu kinh điển mình học, mà bây giờ gặp nghịch cảnh mình qua không được.

Cho nên tên này mất ăn mất ngủ, đến bữa thứ ba, chạy đến phòng thầy gõ cửa. Ông thầy hỏi có chuyện, nó nói, “Con ngộ rồi.” Khi đó hòa thượng mới truyền y bát cho đệ tử này; và ổng mới nói, chuyện ăn trộm là tạo lập ra để đưa người đệ tử vô cái khổ cùng cực.

Như vậy, nếu không có gặp cái khổ kinh khủng này, người đệ tử không ngộ đạo. Mà giả sử người nào yếu, khi bị vu oan như vầy, dám đi đến chỗ tự vận. Còn người nào mạnh, bắt buộc phải đem tất cả vốn liếng kinh điển, bao nhiêu công lực của mình để chống đối với cái khổ. Ngày hôm qua cái ngã mình được khen, được danh thơm, được vui sướng, được hạnh phúc; chỉ một lời nói của ông thầy là bị đảo lộn qua cái mất, qua cái thất bại, qua tiếng xấu và qua cái khổ đau. Nếu mà vượt qua được cái này, thì gọi là tối thượng thừa, cho nên sau ba ngày, người đệ tử ngộ ở chỗ này, ông thầy truyền Y Bát lại.

Cảnh khổ là nấc thang cho bậc anh tài, một kho tàng cho người hiểu biết, và một vực thẳm cho người yếu đuối. Ông thầy biết rõ người đệ tử qua được cảnh huống này, và phải tạo cho nó cái khổ cùng cực nó mới qua được. Như vậy gặp nghịch cảnh người này qua được, qua được rồi thì thành một vị Phật chớ gì, thành ra được Tổ truyền y.

4. Khổ Lạc: Đau khổ – hạnh phúc

Khổ và Lạc, hay còn gọi là đau khổ và hạnh phúc. Hai ngọn gió cuối cùng thông thường nói chung mình mong muốn hạnh phúc, không đạt được thì đau khổ. “Cầu bất đắc khổ”, mình mong cầu không được là đau khổ, còn ước gì được nấy thì lúc đó vui vẻ, sung sướng thành ra một ngọn gió làm cho mình đau khổ, còn một ngọn gió làm cho mình hạnh phúc. Tuy chỉ một giây lát, một thoáng mà thôi. Chứ nó không phải vĩnh viễn, chẳng có cái gì vĩnh viễn trên cuộc đời này cả.

Đức Phật nói rằng các “pháp hữu vi là vô thường”. Chỉ có một pháp vĩnh viễn đó là Niết-bàn, chỉ có khi nào mình giác ngộ nhập Niết-bàn thì mới là vĩnh viễn không còn đau khổ. Còn tất cả hạnh phúc trên thế gian này được một thời gian ngắn mà thôi. Khi bữa ăn ngon thì ta vui vẻ và sung sướng, nhưng ngày hôm sau bữa ăn dở thì đau khổ, thành ra hạnh phúc luôn đi cùng với đau khổ. Niết-bàn của Phật giáo là một nơi không có đau khổ, cũng là một nơi không có hạnh phúc, đừng đi tìm hạnh phúc ở cõi Niết-bàn của Phật giáo. Niết-bàn chỉ là cõi tịch tịnh mà thôi, không có sự đau khổ, không có sự bất toại nguyện. Thành ra tám ngọn gió này nó ảnh hưởng đến cuộc sống phàm phu của chúng ta rất nhiều, làm cho mình quay cuồng trong cuộc sống rất nhiều, đi từ hạnh phúc đến đau khổ chỉ trong giây phút. Có những người trúng số độc đắc và rồi hết tiền, tiêu tan tài sản và sự nghiệp. Có biết bao người giàu có bạc tỷ đến khi hết tiền, tay trắng vẫn là trắng tay, cuối cuộc đời chết đói, không có một miếng ăn để no lòng trước khi nhắm mắt lìa đời, chuyện đó xảy ra hàng ngày trên thế gian này. Thành ra tám ngọn gió nhưng thật sự chỉ có bốn mà thôi, nói với phàm phu thì đức Phật phải mang cái phần hạnh phúc ra để giải thích trước, sau mới nói tới phần đau khổ để cho mọi người mà cố gắng tu tập làm sao tránh đi cái đau khổ. Muốn không có đau khổ thì đừng tìm hạnh phúc, có sanh là có diệt, có già là có bệnh, có bệnh là có đau khổ. Cho nên sinh, lão, bệnh, tử là điều không ai tránh khỏi.

Tám ngọn gió đời thực tế chỉ có bốn ngọn gió mà thôi, vì một ngọn gió thổi mát và một ngọn gió thổi nóng. Tám ngọn gió lớn này làm cho cuộc đời chúng ta bay lên, chìm xuống, trôi qua, ngược lại, khi thì hạnh phúc, khi thì đau khổ và nó làm cho chúng ta điên đảo. Không riêng ai mà tất cả chúng ta đều phải chịu tác động tám ngọn gió đời này như nhau. Muốn vượt qua sự tác động của bát phong, chúng ta phải nỗ lực thực hành chánh pháp để vượt qua tự ngã và thực chứng được duyên khởi của các pháp.

5. Làm sao đạt được Bát Phong xuy Bất Động?

Cuối cùng tôi xin kể một câu chuyện để truyền kinh nghiệm chống chỏi với Bát Phong. Chuyện kể thế này:

Có một chàng chiến sĩ nọ, con của một kiếm sĩ lừng danh, nhưng mà cha không truyền nghề, nói anh không có cái thiên tài, cái khả năng để học nghề cung kiếm. Anh buồn quá vì thấy bao nhiêu người đến học và thành tài, trong khi mình là con cưng mà cha không truyền, cho nên anh đến một vùng khác, tìm một ông kiếm sư khác cũng nổi danh như ba mình để xin học. Anh đến nói với ông kiếm sư đó thế này, “Con còn cha già, mẹ già, và bổn phận phải phụng dưỡng ba má, xin ngài dạy cho con biết hết kỹ xả của nghề kiếm. Con học bao lâu mới thành tài?”

Ông thầy nói, “Bộ vó của ngươi cỡ mười năm!”

Anh ấy nói, “Mười năm lâu quá đi, là tại vì con phải phụng dưỡng ba má, và có biết là bao nhiêu bổn phận chờ đợi. Bây giờ con xin thầy, con sẽ làm một người ở đợ không công, gánh nước, nấu ăn, và làm tất cả những việc như một người ở mà xin thầy đem hết tất cả tài nghệ truyền cho con. Con trả giá học và chuyên cần như vậy, học suốt ngày đêm không quản ngại điều gì hết, thì thầy nhắm con bao lâu?”

Ông Thầy nói, “Cả cuộc đời còn lại của ngươi đó!”

Khi đó, người đệ tử mới nhận ra cái khuyết điểm của mình là quá nôn nóng đi; và nôn nóng thì không thể học được gì hết, cho nên anh ta không đòi nữa. Anh mới đến nên anh làm những chuyện rất bình thường, như quét nhà, nấu ăn, bửa củi, đi chợ, ẵm con cho ông thầy. Ba năm như thế trôi qua, ông thầy không nói chuyện gì về cung với kiếm hết. Biết bao nhiêu chàng thanh niên đến học, tốt nghiệp ra đi, mà anh chàng này chưa bao giờ được rờ tới thanh kiếm.

Một hôm anh buồn bã, đang ngồi chẻ củi thì ông thầy núp đằng sau và phóng vào lưng anh một thanh kiếm gỗ. Thanh kiếm đó dù bằng gỗ nhưng rất đau. Từ đó, bất cứ lúc nào, ngủ hay là thức, ở bên vườn rau, ở ao cá, ở ngoài chợ, trong bếp nấu ăn, bất cứ ở đâu, ông thầy cũng lén đánh anh bằng thanh kiếm gỗ hết; cho nên anh bắt buộc đặt mình trong trạng thái đề phòng, để né thanh kiếm gỗ của ông thầy.

Ông thầy đánh lén như vậy được ba năm, thì anh chàng này cũng phát triển khả năng tránh né đường kiếm bất cứ từ đâu, dù trong bóng tối, ánh sáng, trước mặt hay sau lưng. Khi đó ông thầy tổ chức một buổi lễ và tuyên bố người đệ tử đã thành nghề. Đây là người đệ tử tuyệt luân, ưng ý nhất mà ông tìm kiếm.

Có nghĩa là khi chúng ta né tránh được những đường kiếm đánh lén thì sẽ né được những đường kiếm đánh trước mặt. Ông thầy truyền nghề đánh kiếm lại cho anh chàng này bằng kiểu đó. Học kiếm mà không có học về lý thuyết mà cũng không có thực hành gì hết, chỉ né những đường kiếm đánh lén mà người này thành nghề; nghệ thuật đó gọi là kiếm đạo trong nhà thiền của Nhật Bản.

Chúng ta học Phật cũng vậy, có những người học Phật bằng kinh chữ Nho, chữ Pali, rồi chúng ta ngồi thiền, lễ Phật, tụng kinh… đủ thứ, đó là học theo công thức. Nhưng có một cách học Phật ngoài công thức đó giúp chúng ta tránh được những đường kiếm của thế gian này là Bát Phong.

Tức là khi gặp những cảnh Khổ Vui, Khen Chê, Được Mất… những cái đó là những nghịch cảnh, thuận cảnh, mà chúng ta giữ được tâm mình bình tĩnh và sáng suốt thì người đó sẽ đạt được nghệ thuật Thiền.

Chúng ta thấy các Phật Học Viện, khi các vị tăng sĩ đi vô thì sẽ học kinh, từ bộ này sang bộ khác, còn các Thiền Viện là học để chơi thôi, cho nó đúng quy ước vậy, chứ thiệt ra người thiền sinh mới vô sẽ học nấu cơm, học xách nước, học trồng rau, học trồng tiêu, học trồng nho, học tất cả mọi việc bình thường, không dính dáng gì đến thiền hết. Nhưng trong những cảnh đó, chúng ta thấy cuộc đời này là ông thầy rất tận tâm, luôn luôn đánh chúng ta bằng những thanh kiếm gỗ; có nghĩa là khi chúng ta bị chê, bị mất, bị khổ, bị tiếng xấu, bị những niềm đau ray rứt mà chúng ta vẫn giữ được sự bình tĩnh sáng suốt, thì khi đó người này được gọi là Bát Phong Bất Động.

Và Bát Phong Bất Động là một nghệ thuật mà các vị Thiền sư muốn truyền cho người đệ tử của mình. Ở trong nhà Thiền, thầy chúng tôi dạy thế này, “Tụi con tu không cốt để có thần thông, không cốt để thuyết pháp hay, không cốt để viết văn làm thơ giỏi, mà chỉ làm sao đạt được cái mức giữa Thuận và Nghịch, giữa Bát Phong mà vẫn bình tĩnh, thì đó là điều mà thầy muốn truyền cho bọn con.”

Những điều này chúng tôi học trong chùa, quý vị cũng có thể học ở nhà; tức là ở giữa chợ, ở gia đình, làm dâu, làm vợ, làm cha, làm mẹ, làm tất cả mọi việc bình thường của một thế nhân, nhưng mà lúc nào chúng ta cũng bị ông thầy đánh bằng thanh kiếm gỗ mà nãy giờ tôi đã nói.

Khi bị đánh đầu tiên chúng ta bị đau, sau đó chúng ta tìm cách chống chỏi với cái đau đó, và làm sao giữ được sự bình tĩnh và sáng suốt thì đó là nghệ thuật đánh kiếm, nghệ thuật sống, nghệ thuật Thiền.

Nếu quý vị được hạnh phúc, được khen, được gặp thuận cảnh, điều này nên cám ơn nhân duyên tốt là mình có phước báu vô cùng mới được những hoàn cảnh như ý này, giả sử như chúng ta bị những điều trái ý làm khổ lòng, rối trí thì nhớ rằng cơ duyên giác ngộ rất gần, nếu chúng ta biết một điều là nên bình tĩnh. Giống như Đức Phật dạy, “Khi gặp cảnh thuận con nên khoan mừng, là vì nếu mừng sẽ mất bình tĩnh. Khi gặp cảnh nghịch con khoan buồn tại vì buồn sẽ mất bình tĩnh.”

Chỉ bình tĩnh thôi. Cái bình tĩnh này trong Thiền gọi là Định. Do bình tĩnh cho nên chúng ta duy trì được sự sáng suốt, và duy trì được sự sáng suốt đó trong nhà Thiền gọi là Huệ. Như vậy chúng ta chỉ sử dụng được có hai cái để tu thôi. Là bình tĩnh thì sẽ sáng suốt, nhờ sáng suốt nên duy trì sự bình tĩnh, và do đó chúng ta sống trên thế gian này có thể tắm được những dòng nước nóng lạnh, gọi là tắm nước của Bát Hải Long Vương mà vẫn không bị sứt mẻ gì. Một vị Phật được ra đời là như vậy!

Tâm Hướng Phật/TH!

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *