Cảm nhận bài thơ: Lại tiễn con – Lưu Trọng Lư

Lại tiễn con

 

Anh con bảo: thằng Nông tồ
Nấu nồi cơm chưa chín đã đòi đi bộ đội.
Sáu lần con xin đi, sáu lần chưa đủ tuổi
Mà sáng sáng con vẫn nhảy xà ngang
Nheo mắt con tập bắn lá bên đường…
Như nơi thao trường nổ từng viên đạn

Hôm súng thật lên vai mà ngày tháng
Chưa đuổi kịp chí con
Con ở Chí Linh sáu tháng tròn
Một sớm về thăm cha. Hai hôm sau từ biệt
Tiễn con đi, cha nhìn theo mải miết
Con đi chẳng ngoái lại một lần…
Cha dõi ngắm bước chân con
Mười bảy tuổi rồi, giờ con đã biết
thế nào là vận mất còn Tổ quốc!

Rồi từ trong gian khổ Trường Sơn
Con viết thư về cho anh con
Lời thư chưa nhoà mưa nắng:
“Đất nước mình bao la mà nơi nào cũng bom đạn
Tình cảm phải bay trước đôi chân
Từ đường dây dẫn đến chiến trường
Ngày hôm sau rập theo ngày hôm trước
Một tiến trình không chệch bước!”
Con lớn lên trong khu phố Ba Đình
Cha tìm con giữa thành phố Hồ Chí Minh
Tin con đột về mà lòng cha đón trước.
Hai phút nổ tan tàu giặc
Con đi rồi như một cánh hoa bay…
Giờ quê con đó: Vàm Cỏ Tây
Chiếc võng dù giờ ru con bên bờ đước
Con dậy với bình minh trong tiếng chim bầy “chẽo chẹt”
Chiều những gái xóm về rũ áo bên dòng trong…
Mùi tóc, mùi rạ ấm nồng…
Và đêm quanh mình con, một vùng trăng đồng đội.

Hè, con vẫn nghe đây, tiếng ve đầu Hà Nội
Tiếng xe điện chạy trước đường
Tiếng Nhi, tiếng Mã ríu rít cầu thang
Đông, tiếng tắc kè bên Văn Miếu cũ
Như một chuyến đi xa, con lại về.
Đêm văn nghệ con có nghe?
Vẫn như hôm nào, tiếng đàn tranh của mạ
Bước cha đi lần mò dặm đá,
Gió Trường Sơn trên đôi mái tóc bay?
Đất của con, đất anh Qui anh Hoà những người đồng đội
Nắm đất nhào mưa bùn có ánh sao trời chấp chới
Ôi! Nắm đất đã soi ánh mắt con
Khi súng con đang giữa lửa căm hờn…
Nông ơi! Cha thấy rồi phút giây con ngã.
Giờ tìm đến thư con, ngắm từng nét chữ
Nét mỏng manh rất đỗi hiền lành
Tấm ảnh con cha giấu mãi trong mình
Giở ra, mắt con vào cha, nhìn thẳng…

Trời Qui Nhơn, một trời đầy nắng
Nhìn Trường Sơn mường tượng bóng con đi”
Mũ tai bèo đôi cánh đang bay
Vàm Cỏ Tây, kịp tối nay về yên giấc ngủ
Nơi Đồng Tháp, có mẹ hiền ngọn gió!

“Cuộc sống đâu chỉ một lần”
Của cha, da tóc nửa phần
Gửi lại bên mình con đó
Và tuổi hoa con, một hòn màu đỏ
Cha mang theo nóng hổi một đời…
Cả nước mình giờ về đó! Con ơi.


(Quy Nhơn 1976)

*

Lại Tiễn Con – Nỗi Lòng Người Cha Và Khúc Tráng Ca Tuổi Trẻ

Có nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau tiễn con ra trận? Có niềm tự hào nào mãnh liệt hơn khi người con của mình dấn thân vì Tổ quốc? “Lại tiễn con” của Lưu Trọng Lư không chỉ là một bài thơ mà còn là một bản tráng ca xúc động, khắc họa hình ảnh một người cha tiễn biệt con đi, rồi mãi mãi không trở về.

Người lính trẻ và ước mơ ra trận

“Anh con bảo: thằng Nông tồ
Nấu nồi cơm chưa chín đã đòi đi bộ đội.
Sáu lần con xin đi, sáu lần chưa đủ tuổi
Mà sáng sáng con vẫn nhảy xà ngang
Nheo mắt con tập bắn lá bên đường…”

Ngay từ những dòng thơ đầu, hình ảnh cậu bé Nông hiện lên đầy nhiệt huyết. Mới mười bảy tuổi, nhưng trong tim đã rực cháy khát khao cống hiến. Cậu tập bắn lá bên đường như một người lính tập bắn trên thao trường, háo hức lên đường chiến đấu như không thể chờ đợi lâu hơn. Lời thơ của Lưu Trọng Lư giản dị nhưng đầy ẩn ý: “Sáu lần con xin đi, sáu lần chưa đủ tuổi”, một con số thể hiện sự nôn nóng, quyết tâm của người trẻ, của một thế hệ sẵn sàng hiến dâng tuổi thanh xuân cho đất nước.

Nỗi lòng người cha – niềm tự hào xen lẫn xót xa

“Tiễn con đi, cha nhìn theo mải miết
Con đi chẳng ngoái lại một lần…”

Người cha đứng đó, lặng lẽ dõi theo bước chân con, lòng tự hào nhưng cũng chất chứa nỗi xót xa. Bởi ông hiểu, lần tiễn biệt này có thể là mãi mãi. Câu thơ “Con đi chẳng ngoái lại một lần…” không chỉ thể hiện sự dứt khoát của chàng trai trẻ mà còn như một nhát dao cứa vào lòng cha. Người đi thì vững vàng, người ở lại thì đau đáu. Nhưng trong lòng người cha, niềm tự hào vẫn lớn hơn tất thảy, bởi ông biết rằng con mình đã hiểu rõ “thế nào là vận mất còn Tổ quốc!”.

Hy sinh – Hòn máu đỏ thiêng liêng

“Hai phút nổ tan tàu giặc
Con đi rồi như một cánh hoa bay…”

Không bi lụy, không chìm trong đau thương, Lưu Trọng Lư viết về sự ra đi của Nông như một khúc ca anh hùng. Hình ảnh “cánh hoa bay” gợi lên cái chết nhẹ nhàng mà cao đẹp, sự hy sinh thanh thản mà thiêng liêng. Không có nước mắt vật vã, chỉ có nỗi nghẹn ngào của một người cha khi nhìn lại từng bức thư, từng nét chữ của con trai mình.

“Trời Qui Nhơn, một trời đầy nắng
Nhìn Trường Sơn mường tượng bóng con đi
Mũ tai bèo đôi cánh đang bay
Vàm Cỏ Tây, kịp tối nay về yên giấc ngủ
Nơi Đồng Tháp, có mẹ hiền ngọn gió!”

Con trai ông không còn nữa, nhưng hình bóng con vẫn hiển hiện khắp nơi, từ Qui Nhơn đầy nắng đến Trường Sơn hùng vĩ, từ Vàm Cỏ Tây đến Đồng Tháp. Người cha tìm con trong đất trời, trong ngọn gió, trong từng cánh đồng và con đường con đã đi qua. Sự hy sinh của con không còn là của riêng gia đình, mà đã hóa thân vào đất nước, trở thành một phần bất tử của dân tộc.

Thông điệp: Cuộc đời con – ngọn lửa truyền lại mãi mãi

“Cuộc sống đâu chỉ một lần
Của cha, da tóc nửa phần
Gửi lại bên mình con đó
Và tuổi hoa con, một hòn màu đỏ
Cha mang theo nóng hổi một đời…
Cả nước mình giờ về đó! Con ơi.”

Người cha không chỉ tiễn con đi chiến đấu mà còn tiễn con về với đất mẹ. Nhưng con không chết, con vẫn sống trong lòng dân tộc, trong tình yêu của quê hương. “Tuổi hoa con, một hòn màu đỏ” – màu đỏ ấy là màu máu, màu của sự hy sinh nhưng cũng là màu của ngọn lửa không bao giờ tắt.

Bài thơ “Lại tiễn con” không đơn thuần là tiếng khóc của một người cha mất con, mà là tiếng vọng lớn lao của một thế hệ cha anh tiễn biệt những người con ra đi vì độc lập, tự do. Nó không chỉ khắc họa bi kịch của chiến tranh mà còn làm sáng lên niềm tự hào, ý chí quật cường và tinh thần bất khuất của dân tộc Việt Nam.

Bởi lẽ, cuộc sống đâu chỉ một lần – những người đã ngã xuống sẽ còn mãi trong từng tấc đất, từng con đường, từng ngọn gió quê hương.

*

Lưu Trọng Lư – Người tiên phong của Phong trào Thơ mới

Lưu Trọng Lư (19/6/1911 – 10/8/1991) là nhà thơ, nhà văn, nhà soạn kịch Việt Nam, sinh ra tại làng Cao Lao Hạ, xã Hạ Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. Ông xuất thân trong một gia đình nho học và sớm bộc lộ tài năng văn chương.

Là một trong những người khởi xướng và tích cực cổ vũ Phong trào Thơ mới, Lưu Trọng Lư đã để lại dấu ấn sâu đậm với những vần thơ trữ tình giàu cảm xúc, nổi bật là bài Tiếng thu với hình ảnh “con nai vàng ngơ ngác” đã trở thành biểu tượng của thi ca Việt Nam. Ngoài thơ, ông còn sáng tác văn xuôi, kịch nói, cải lương, góp phần phong phú cho nền văn học nghệ thuật nước nhà.

Sau Cách mạng Tháng Tám, ông tham gia Văn hóa cứu quốc, hoạt động tuyên truyền văn nghệ trong kháng chiến. Sau năm 1954, ông tiếp tục cống hiến trong lĩnh vực sân khấu và văn học, từng giữ chức Tổng Thư ký Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam.

Với những đóng góp lớn lao, năm 2000, Lưu Trọng Lư được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật. Lưu Trọng Lư không chỉ là một nhà thơ tài hoa mà còn là người đã góp phần làm thay đổi diện mạo thơ ca Việt Nam.

Viên Ngọc Quý.

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *