Sư Minh Tuệ, cơn mưa rào tỉnh thức

Khoảng giữa năm 2024, khi hiện tượng sư Minh Tuệ nổi lên, cộng đồng đã nhắc đến nhiều về sự tỉnh thức. Điều đó hoàn toàn có lí. Nhưng theo thời gian, cần nhìn lại xem xã hội có thực sự tỉnh thức hay chưa? Hay nói cách khác số người tỉnh thức ấy có phải là đa số, đủ làm nên một sự thay đổi sâu rộng trong cộng đồng hay không?

Từ đó đến nay cũng được một năm, song nhìn lại biết bao sự kiện, diễn biến liên quan tới sư Minh Tuệ trôi qua. Từ lúc đoàn ly tán, đến lúc ông xuất hiện, rồi thấy ông ẩn tu một thời gian, và một cuộc xuất ngoại, hành hương về Tứ thánh tích. Theo chuyến hành hương đó, lại một lần nữa, là sự sống dậy của truyền thông về đoàn bộ hành và sự nổi lên của các vị “hộ pháp”.

Từ đây, xã hội bộc lộ ra hết tất cả những gì như nó vốn có. Sự kính ngưỡng, yêu quý sư Minh Tuệ trước kia đã dần cho thấy, nó không mang lại một sự tỉnh thức đúng nghĩa, không có một cuộc thay đổi bản chất nào trong tâm lí nhận thức và lối sống cộng đồng.

Mặt khác, sự yêu kính, ngưỡng mộ sư Minh Tuệ cũng không thiên về một khao khát, một niềm tin tâm linh nguyên sơ thuần khiết; mà phần nhiều là những xúc động, rung cảm trước một nhà sư nhỏ thó, gầy nhom, khắc khổ, và chân thật. Số khác thì sùng bái theo cách mê tín, cuồng tín như một thuở họ đã từng mê ở những nơi khác. Lại thêm, đó là một số kẻ nhân cơ hội kéo theo trục lợi… Tất cả những điều này được kiểm nghiệm khi có sự xuất hiện của các ông “hộ pháp”. Họ vốn từ một vai phụ, đi theo sư Minh Tuệ, ban đầu được “hào quang” chiếu sáng, rồi sau mượn luôn không trả ánh hào quang ấy. Đó là lúc cộng đồng bắt đầu phân cực, nhiều người từ ngưỡng mộ sư Minh Tuệ dần ly khai, không tin ông thầy mình nữa; mà thay vào đó họ tin vào ông “hộ pháp” với một niềm tin mãnh liệt – chỉ có vị hộ pháp ấy mới tốt với thầy. Và bỏ thầy vì thầy phụ ơn vị hộ pháp ấy. Tiếp sau, thật bất ngờ khi xuất hiện một vị “hộ pháp” mới, thế vào chỗ của vị “hộ pháp” cũ. Vị thứ hai này được cái “kham nhẫn” và có lý luận Phật học, nên dần lay động lòng người, và càng được đại chúng tin yêu hơn. Đặc biệt, sẵn một bộ phận cộng đồng đang không ưa vào vị “hộ pháp” trước đó đã trở thành một lực lượng hâm mộ hùng hậu của anh ta.

Ngay lúc này xã hội đã phân cực thành nhiều nhóm: theo thầy, theo “hộ pháp” đầu, theo “hộ pháp” sau. Đặc biệt có những nhóm vừa yêu kính thầy vừa tin “hộ pháp”. Điều đáng nói là, hiện tại không ít người đã đồng nhất sư Minh Tuệ với vị “hộ pháp” đến sau. Họ đưa ra những lí lẽ hết sức kì quái, rằng không tin vị “hộ pháp” ấy là không tin thầy, phỉ báng thầy. Vì anh ta được thầy lựa chọn. Trong khi họ quên rằng sư Minh Tuệ chẳng chọn ai, mọi người tự đến tự đi, tất cả là tùy duyên. Đáng sợ nhất là họ chụp mũ bất cứ ai phản biện về ông “hộ pháp” ấy, họ nâng quan điểm lên rằng “thầy biết hết” … “coi thường trí tuệ của thầy”. Khiếp như vậy đấy! Họ mặc nhiên “thầy biết hết”, nghĩa là thầy đã đắc thần thông.

Theo kinh điển, một vị đắc thần thông có thể biết những thứ mà mất trần không ai thấy. Nhưng họ đâu biết rằng đạo Phật không lấy thần thông làm cứu cánh, mà chủ trương giác ngộ giải thoát, tức trở thành bậc vô sinh, thoát khỏi luân hồi sinh tử. Đó là mục tiêu, là đại nguyện cao nhất của một bậc hành giả.

Họ cũng bị nhầm lẫn giữa trí tuệ Bát nhã (trí tuệ Phật) với trí tuệ thế gian. Trí tuệ Bát nhã để quán thấy vô thường, vô ngã, hoặc giả để có lòng từ bi với chúng sinh, chứ đâu phải trí tuệ Bát nhã là cái để biết những điều nhỏ nhặt rồi dính mắc vào đấy. Cho nên, họ thật kì lạ, khi một mặt, thánh hoá sư Minh Tuệ – cho ông là Phật, một mặt họ lại biến trí tuệ Phật của ông thành trí tuệ thế gian, trí tuệ của người đời. Nếu rõ được như vậy, họ sẽ nhìn một cách khác. Và có thể tự kiến giải rằng sư Minh Tuệ đang mở lòng từ bi, vị tha với tất thảy những ai đến với ông, đi bên ông. Nếu rõ được như vậy, có lẽ họ sẽ nhận thức chính mình đang phỉ báng sư Minh Tuệ, vì đã hạ cấp trí tuệ Bát nhã xuống thành trí tuệ phàm phu.

Đến đây, có thể nói, lòng kính ngưỡng sư Minh Tuệ không đồng nghĩa với một sự tỉnh thức sâu rộng đúng nghĩa. Nói cách khác, không có sự thay đổi về lượng nào đáng kể để làm nên một sự thay đổi về chất.

Có lẽ sự xuất hiện của sư chỉ như một cơn mưa rào bất chợt ập đến, cuốn phăng, gột rửa những bụi trần, tạp nhiễm mà chúng đã tích tụ bấy lâu nay. Nhưng mưa rào lại chóng đến nhanh đi. Bụi bặm lại hoàn bụi bặm, uế trược lại về uế trược.

Nói như vậy không phải võ đoán. Thực tế, nó được kiểm nghiệm không chỉ dừng lại ở sự phân cực từ câu chuyện “hộ pháp”, mà còn hiện tượng hàng vạn con người đua nhau, đổ xô, chen chúc hỗn loạn, kéo về các chùa để được tận mục sở thị xá lợi Phật.

Xá lợi Phật tất nhiên phải quý, vì nó minh chứng cho sự tồn tại của một bậc Chánh Đẳng Giác từng xuất hiện ở thế gian với tư cách là một con người bằng xương bằng thịt. Hơn nữa, nó còn là một biểu tượng tâm linh về sự hiện hữu của vị Giáo chủ cõi Ta bà. Mà đã quý thì ai cũng muốn thấy một lần trong đời, nhất là những người mộ đạo.

Nhưng, đạo Phật không hướng cho con người ta đi cầu ông Phật ở bên ngoài, mà hãy tìm ông Phật ở bên trong. Chính thế, đạo Phật đòi hỏi người tu phải tư duy, suy nghiệm cá nhân để mở trí mà nhìn thấy được chân tâm thanh tịnh. Bên cạnh đó, xuất phát từ sự tò mò và tính hiếu kì. Những trạng thái tâm lí này mặc nhiên ai cũng có. Tuy nhiên, khi một cộng đồng mà không có được số đông tiết chế bằng những suy nghĩ độc lập, đứng tách mình ra; thì dễ tạo thành những hiệu ứng lây lan đáng sợ.

Như vậy, nhìn nhận một cách khách quan, sự xuất hiện của sư Minh Tuệ, nếu cho là một sự tỉnh thức thì nó mới chỉ là sự khởi đầu. Điều có ý nghĩa nhất, chính sự xuất hiện này đã làm hiển lộ nhiều hơn những tồn tại trong xã hội, và bày ra những thuộc tính, căn tính dân tộc.

(Nguồn: GV ngôn ngữ học Nguyễn Thanh Huy -Trường ĐH Khánh Hóa)

Bạn có thể chia sẻ bài viết qua:

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *