Đào Tiềm (Tấn) (365 – 427)
Về quê sống
Núi Nam gieo đậu dưới chân
Đậu chưa kịp mọc cỏ dần tối xanh.
Ruộng hoang cuốc bởi sạch sanh
Đội trăng bước vội chân nhanh trở về.
Đường cây cỏ rợp lối mê
Sương vương ướt đẫm dầm dề áo ta.
Sá gì sương thấy buốt da
Chỉ mong kịp bước về nhà đêm nay.
*
Uống rượu
Nhà tre giữa cõi tục
Không ngựa xe ồn vang
Hỏi anh sao được vậy?
Lòng xa cảnh tự an.
Dưới rào đông hái cúc
Nhàn nhã trông núi Nam
Ánh tà dương buông xuống
Đàn chim muộn bay về.
Cảnh ấy mê hồn mộng
Có ý lời chẳng thông.
*
Tức cảnh sinh tình
Nhà của ta ở đâu
Bụi trần chốn nương dâu
Phiêu theo con gió thổi
Thân này muộn ưu sầu.
Đâu đâu cũng huynh đệ
Câu nệ chi thân sơ
Mừng vui khi gặp mặt
Chia nhau chén rượu thơ.
Thanh xuân khó lặp lại
Bình minh đâu lần hai
Nỗ lực thời gắng sức
Năm tháng nào đợi ai.
*
Bài từ “Về đi thôi!”
Về đi thôi!
Ruộng vườn sắp hoang vu sao chưa về?
Đã tự nguyện đem lòng mình cho hình hài sai khiến
Sao còn buồn khổ lại sầu bi?
Hiểu dĩ vãng không còn sửa nổi
Biết tương lai có thể đổi thay
Đường mê quả thật còn dài
Ngộ ra mới biết xưa nay lỗi lầm.
— Trích từ “Đào Uyên Minh tập”.
*
Đào Tiềm (陶潛, 365 – 427), biểu tự Nguyên Lượng (元亮), hiệu Uyên Minh (淵明), lại có biệt hiệu là Ngũ liễu tiên sinh (五柳先生), là một trong những nhà thơ lớn của Trung Quốc thời nhà Tấn và Lưu Tống.
Bài viết bạn có thể quan tâm: Quy khứ lai từ – Đào Tiềm