Vịnh ông lão đầu bạc
Lưu Hy Di (Đường) (651 – 679)
Đông thành Lạc Dương đào mận nở
Rụng rơi qua lại chốn nhà ai
Nữ nhi Lạc Dương nhan sắc đẹp
Ngồi ngắm hoa rơi lại thở dài.
Năm nay hoa rụng nhan sắc đổi
Sang năm hoa nở người nơi nao?
Đã thấy tùng bách khô thành củi
Lại nghe ruộng dâu hóa biển xanh.
Người xưa chẳng về Đông thành nữa
Người này trong gió ngắm hoa rơi
Năm năm tháng tháng hoa vẫn thế
Tháng tháng năm năm người khác rồi.
*
Đêm trăng hoa trên sông xuân
Trương Nhược Hư (Đường) (660 – 720)
Sông xuân triều dậy liền mặt bể
Trăng lên cao cùng nước triều dâng
Sóng lấp loáng trôi ngàn ngoài dặm
Sông nơi nơi đều sáng ánh ngời.
Quanh co sông uốn cồn thơm chảy
Trăng chiếu rừng hoa ngỡ tuyết rơi
Sương bay thấp thoáng nhìn chẳng biết
Bãi sông cát trắng chẳng nhận ra.
Trời sông một dải không phân biệt
Một vầng vằng vặc giữa tầng không
Trăng tự bờ đây ai thấy trước
Sông trăng năm nao mới chiếu người?
Cuộc đời muôn kiếp không dứt đoạn
Sông trăng vẫn thế mãi bao năm
Chẳng biết sông trăng chờ ai đó
Chỉ thấy sông dài nước mãi tuôn.
— Trích từ “Toàn Đường thi”
*
Xuân giang hoa nguyệt dạ là bài thơ trữ tình nổi tiếng trong lịch sử văn học Trung Quốc. Nhà nghiên cứu văn học đời Thanh Vương Khải Vận khen bài thơ này là “chỉ một thiên tuyệt diệu, đủ xứng đáng là đại gia” (cô thiên hoành tuyệt, cánh vi đại gia); nhà thơ hiện đại Văn Nhất Đa thì ca ngợi rằng bài thơ này là “thơ trong thơ, đỉnh núi trên các đỉnh núi” (thi trung đích thi, đỉnh phong thượng đích đỉnh phong). Theo lời Lưu Kế Tài thì đối với người Nhật Bản hiện đại, hai bài thơ Đường được hâm mộ nhất là Xuân giang hoa nguyệt dạ của Trương Nhược Hư và Trường hận ca của Bạch Cư Dị.
Bài thơ thể hiện nỗi nhớ của người du tử đối với người khuê phụ. Tựa đề có nghĩa là đêm hoa trăng trên sông xuân, nhưng cũng là tên một khúc nhạc phủ thuộc Thanh thương ca khúc, khúc điệu được sáng tác vào đời Trần Hậu Chủ, do đó tựa đề cũng có thể không cần dịch nghĩa.
Bài viết bạn có thể quan tâm: