Đêm đông đọc sách dạy con trai Tử Duật
Lục Du (Tống) (1125- 1210)
Người xưa học tập tận tâm hành
Tuổi trẻ gắng công, lớn vang danh
Sách vở vẫn còn điều nông cạn
Đạo lý thâm sâu phải tự thành.
— Trích từ “Kiếm Nam thi cảo”
*
Ngày mai
Văn Gia (Minh) (1501- 1583)
Ngày mai lại ngày mai
Ngày mai sao mà lắm
Ngày ngày đợi ngày mai
Vạn sự lần nữa mãi.
Người người mệt mỏi vì ngày mai
Vô số ngày mai già đến vai
Sớm chiều nước cuộn về Đông hải
Mặt trời khuất núi lặn về Tây.
Trăm năm một kiếp mấy ngày mai
Xin người nghe lấy lời này của tôi.
*
Hôm nay
Hôm nay lại hôm nay
Hôm nay sao mà ít
Chuyện này lúc nào xong?
Đời người trăm năm mấy hôm nay
Hôm nay không làm thật tiếc thay!
Nếu nói tạm đợi ngày mai đến
Ngày mai lại có chuyện ngày mai.
Vì người xin tạm ngâm thơ này
Mong người nỗ lực chớ chờ ngày mai.
— Trích từ “Văn thị ngũ gia tập”
*
Lục Du (陸游 1125- 1210), tự Vụ Quan (務観), hiệu Phóng Ông (放翁); người Sơn Âm; nay là huyện Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang là quan thời Nam Tống, là nhà thơ và là nhà làm từ ở Trung Quốc. Ông xuất thân trong một gia đình làm nghề nông khá giả, có nề nếp văn chương, qua các triều đại đều có người ra làm quan.
Lục Du là nhà thơ có một sức sáng tác hết sức dồi dào. Ông cần cù làm thơ suốt đời, vì thế trong lịch sử văn học cổ đại Trung Quốc, ông là nhà thơ làm nhiều thơ nhất. Không kể những bài mất mát hoặc do ông bỏ đi, thì số thơ còn lại khoảng 9.300 bài thơ, 130 bài từ và nhiều bài văn xuôi khác.
Đúc kết lại về sự nghiệp sáng tác của ông, nhiều nhà nghiên cứu đã nhận định rằng phong cách của Lục Du khá đa dạng, nhiều bài thơ của ông tràn trề tinh thần yêu nước, gần gũi với nhân dân; nhưng lại có những bài trầm uất giống như thơ Đỗ Phủ, bi phẫn như thơ Khuất Nguyên, giản dị cao khiết như thơ Đào Tiềm, bay bổng lãng mạn như thơ Lý Bạch, hoặc hùng tâm như từ của Tân Khí Tật… Nhìn chung, thơ Lục Du, về tư tưởng và nghệ thuật, đều có những thành tựu xuất sắc. Trên thi đàn đời Tống, ông là một nhà thơ kiệt xuất, có ảnh hưởng khá sâu rộng đối với thơ ca yêu nước ở Trung Quốc, đặc biệt đối với những nhà thơ cuối đời Nam Tống đến đầu Nguyên, như Văn Thiên Tường, Lâm Cảnh Hy…
*
Bài viết bạn có thể quan tâm: 365 ngày cho cuộc lữ hành – Ngày 6 tháng 1: Lời khuyên cho đời sau & Chuyện về Nhân thọ đường