365 ngày cho cuộc lữ hành – Ngày 10 tháng 6: Thơ Lục Du

Lục Du (Tống) (1125 – 1210)

Mưa xuân ở Lâm An mới tạnh

Vị đời năm đến tựa tơ

Ai xui ngựa ruổi bến bờ phồn hoa

Đêm xuân nghe hạt mưa sa

Sớm ra rao bán hạnh hoa góc đường

Chữ thảo nghiên giấy tỏ tường

Bên song trời tạnh trà hương quyện nồng

Áo trắng mặc sức thong dong

Thanh minh kịp lúc vọng lòng cố hương.

*

Du xuân

Thuyền nan rẽ sóng hồ xanh

Tàn hoa vó ngựa tung hoành dọc ngang

Bảy mươi năm chốn trần gian

Xuân thời vui thú chẳng màng thế nhân.

*

Sách nơi lều cỏ

Lều cỏ ngồi lâu xuân ấm thay!

Giấy nọ im lìm trắng tựa mây

Ngoài việc phóng sinh và kê thuốc

Chuyện gì có thể động ta đây?

*

Thơ khuyên không sát sinh

Máu thịt đầm đìa có ngon chăng?

Nỗi niềm đau đớn bao khó khăn

Xin hỏi nếu ta là như vậy

Dao cắt thân tan ai thấu đặng?

*

Nhắc con

Dẫu biết chết rồi vạn sự không

Chỉ tiếc chưa thấy chín châu đồng

Nhớ ngày khôi phục toàn bờ cõi

Con thắp nén hương báo tổ tông.

— Trích từ “Kiếm Nam thi cảo”

*

Lục Du (陸游, 1125-1210), tự Vụ Quan (務観), hiệu Phóng Ông (放翁); là quan thời Nam Tống, là nhà thơ và là nhà làm từ ở Trung Quốc.

Lục Du là nhà thơ có một sức sáng tác hết sức dồi dào. Ông cần cù làm thơ suốt đời, vì thế trong lịch sử văn học cổ đại Trung Quốc, ông là nhà thơ làm nhiều thơ nhất. Không kể những bài mất mát hoặc do ông bỏ đi, thì số thơ còn lại khoảng 9.300 bài thơ, 130 bài từ và nhiều bài văn xuôi khác.

Đút kết lại về sự nghiệp sáng tác của ông, nhiều nhà nghiên cứu đã nhận định rằng phong cách của Lục Du khá đa dạng, nhiều bài thơ của ông tràn trề tinh thần yêu nước, gần gũi với nhân dân; nhưng lại có những bài trầm uất giống như thơ Đỗ Phủ, bi phẫn như thơ Khuất Nguyên, giản dị cao khiết như thơ Đào Tiềm, bay bổng lãng mạn như thơ Lý Bạch, hoặc hùng tâm như từ của Tân Khí Tật…

Chính vì vậy, thơ ca ông đã đem lại cho người đọc một cảm thụ nghệ thuật đặc biệt. Song, không phải không có khuyết điểm, vì chúng có khi trùng ý, lỏng lẻo và thô thiển, nhất là những bài ông làm lúc tuổi già.

Nhìn chung, thơ Lục Du, về tư tưởng và nghệ thuật, đều có những thành tựu xuất sắc. Trên thi đàn đời Tống, ông là một nhà thơ kiệt xuất, có ảnh hưởng khá sâu rộng đối với thơ ca yêu nước ở Trung Quốc, đặc biệt đối với những nhà thơ cuối đời Nam Tống đến đầu Nguyên, như Văn Thiên Tường, Lam Cảnh Huy.

Bài viết bạn có thể quan tâm: 365 ngày cho cuộc lữ hành – Trải nghiệm từ kinh điển Phật giáo và văn học Trung Hoa- Lời tựa của Đại sư Tinh Vân

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *