Thế gian biến đổi – Nguyễn Bỉnh Khiêm

Thế gian biến cải vũng nên đồi,
Mặn nhạt, chua cay lẫn ngọt bùi.
Còn bạc, còn vàng, còn đệ tử,
Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi.
Xưa nay đều trọng người chân thật,
Ai nấy nào ưa kẻ đãi bôi.
Ở thế mới hay người bạc ác,
Giàu thì tìm đến, khó thì lui.

Theo Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm dựa theo các bản Nôm Trình quốc công Nguyễn Bỉnh Khiêm thi tập (AB.635), Bạch Vân Am thi tập (AB.157), Trình quốc công Bạch Vân Am thi tập (AB.309).

Nguồn: Bùi Văn Nguyên, Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm (tập 1), NXB Giáo dục, 1989

*

Lời bình

Bài thơ “Thế gian biến đổi” của Nguyễn Bỉnh Khiêm phản ánh triết lý nhân sinh sâu sắc, bộc lộ những suy tư về sự thay đổi của xã hội và lòng người qua thời gian. Qua bài thơ này, Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện quan điểm châm biếm về lối sống thực dụng và sự bạc bẽo của con người trong mối quan hệ xã hội.

“Thế gian biến cải vũng nên đồi, / Mặn nhạt, chua cay lẫn ngọt bùi.”

Hai câu đầu mở ra bằng hình ảnh “thế gian biến cải” — sự thay đổi không ngừng của thế giới. “Vũng nên đồi” là một cách nói hình ảnh rất độc đáo, chỉ sự biến đổi đột ngột của những thứ tưởng chừng như cố định (vũng lầy thấp trở thành đồi cao). Câu thơ không chỉ nói đến sự thay đổi về mặt địa lý hay tự nhiên mà còn ám chỉ sự thay đổi của lòng người, của xã hội qua thời gian.

“Mặn nhạt, chua cay lẫn ngọt bùi” là hình ảnh tượng trưng cho những cung bậc cảm xúc và trải nghiệm mà con người trải qua trong cuộc sống. Nó thể hiện một sự hòa trộn phức tạp của các mặt đối lập, và cho thấy cuộc đời không chỉ có những điều dễ chịu mà còn đầy thử thách và nghịch lý.

“Còn bạc, còn vàng, còn đệ tử, / Hết cơm, hết rượu, hết ông tôi.”

Hai câu thực là lời nhận xét đầy thực tế về sự tương tác xã hội. Khi còn tiền bạc, vàng bạc, người ta có thể có nhiều người theo hầu, “đệ tử”, nhưng khi tiền bạc hết, “hết cơm, hết rượu” thì những mối quan hệ đó cũng mất đi. Câu thơ phơi bày một sự thật cay đắng về lòng người trong xã hội: sự phụ thuộc vào vật chất và lợi ích cá nhân để duy trì các mối quan hệ. Nếu không có gì để “chia sẻ” hay “đãi đằng”, thì người ta sẽ không còn được coi trọng.

“Xưa nay đều trọng người chân thật, / Ai nấy nào ưa kẻ đãi bôi.”

“Xưa nay” cho thấy đây là một nguyên tắc sống phổ quát và bền vững: những người chân thật, sống với lòng trung thành, thật thà luôn được coi trọng. Ngược lại, “kẻ đãi bôi” — những người sống giả dối, giả tạo, chỉ cố gắng làm hài lòng người khác bằng lời nói hoa mỹ, không bao giờ được người đời ưa chuộng hay tôn trọng thực sự. Hai câu thơ thể hiện triết lý nhân sinh của tác giả, đề cao phẩm chất chân thật trong cuộc sống và mối quan hệ giữa con người với nhau, ngầm lên án sự giả tạo, hư ảo.

“Ở thế mới hay người bạc ác, / Giàu thì tìm đến, khó thì lui.”

Câu kết của bài thơ thể hiện sự cay đắng, chua xót của Nguyễn Bỉnh Khiêm trước bản chất con người trong xã hội. “Người bạc ác” chỉ những người sống vô ơn, lạnh lùng và thiếu tình nghĩa. Khi giàu có, nhiều người sẽ tìm đến, kết giao vì lợi ích; nhưng khi rơi vào hoàn cảnh khó khăn, họ lại rời bỏ, quay lưng đi.

Hai câu thơ cuối cùng nhấn mạnh sự thực dụng, lợi dụng trong xã hội, nơi mà lòng người dễ dàng thay đổi vì vật chất và hoàn cảnh.

“Thế gian biến đổi” là một bài thơ mang đậm tính triết lý nhân sinh của Nguyễn Bỉnh Khiêm, phê phán xã hội và con người trong sự biến đổi vô thường của cuộc sống. Nhà thơ khắc họa một bức tranh xã hội thực dụng, nơi mối quan hệ con người bị chi phối bởi tiền bạc và lợi ích cá nhân. Tuy nhiên, trong đó, ông cũng khẳng định giá trị bền vững của sự chân thật và lòng trung thực.

Bài thơ không chỉ có giá trị phản ánh hiện thực xã hội thời Nguyễn Bỉnh Khiêm mà còn mang tính phổ quát về lòng người và xã hội trong mọi thời đại. Những suy tư và triết lý trong bài thơ vẫn còn ý nghĩa sâu sắc trong cuộc sống hiện đại, khi con người ngày nay vẫn đối diện với những vấn đề tương tự về lòng tin, tình cảm và lợi ích./.

(ST)

Bài viết bạn có thể quan tâm

1. “Dưỡng sinh thi” – Bài thơ nổi tiếng về thuật Dưỡng sinh trường thọ của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

2. Bài thơ “Nhàn” – Nguyễn Bỉnh Khiêm

3. Bài thơ “Ngày Nhàn” – Nguyễn Trãi

4. Bài thơ “Chữ Nhàn” – Nguyễn Công Trứ

5. Bài thơ “Nhàn” -Hưng Hòa

Bạn cũng có thể thích..

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *