Tân Khí Tật (Tống) (1140 – 1207)
Bài thơ đề trên tường trong núi Bác Sơn
Thuở chưa nếm vị sầu đau
Mộng mơ người chốn lầu cao kết tình
Ai hay người ấy tặng mình
Nhiều lời cay đắng thêm minh cuộc đời.
Khổ đau nay đã tỏ rồi
Phân vân muốn nói thôi thời lặng im
Im lặng bỗng hiểu sâu thêm
Hóa ra đời vốn ngàn đêm khổ sầu.
*
Đêm đến Hoàng Sa Hà Nam
Trăng sáng đầu cành chim thước đâu?
Nửa đêm gió mát tiếng ve sầu
Hương lùa nồng nàn mang tin tốt
Ếch gọi điềm lành một đôi câu.
Mấy ánh sao lạc giữa trời không
Dăm ba giọt nước lúc hừng đông
Lối xưa suối chảy ven rừng đó
Mái tranh hiện giữa chốn non bồng.
*
Rằm tháng giêng
Đêm khuya gió thổi động ngàn cây
Núi rừng lay lắt, sao như mây
Ngựa quý, hương đưa, xe chạm trổ
Sáo vang, phụng hót, dạ ngất ngây.
Bóng nguyệt chẳng lay rồng múa lượn
Lầu vàng liễu rủ phảng phất hương
Giữa chốn đông người tìm tri kỷ
Ai hay người đợi cuối con đường?
— Trích từ “Tân Khí Tật toàn tập”
*
Tân Khí Tật (辛棄疾, 1140 – 1207), nguyên tự Thản Phu (坦夫), sau đổi là Ấu An (幼安), hiệu Giá Hiên cư sĩ (稼軒), là quan thời Nam Tống, và là nhà làm từ từ nổi tiếng trong lịch sử văn học Trung Quốc.
Học giả Nguyễn Hiến Lê đã viết rằng:Tân Khí Tật chuyên viết từ. Từ của ông có đủ vẻ, khi bi tráng, lúc lâm ly, khi phóng khoáng, lúc khôi hài, hoặc hoài cổ, hoặc tự tình, vui điền viên, tả sơn thủy, giọng nào cũng đặc sắc.
Bài viết bạn có thể quan tâm: