Vương Duy thi tuyển
Vương Duy (Đường) (699 – 759)
Mồng chín tháng chín nhớ anh em ở Sơn Đông
Một mình đất lạ làm khách xa
Mỗi dịp tết về nhớ thiết tha.
Vẫn hay huynh đệ nơi chốn ấy
Bẻ nhành cỏ thuốc thiếu mình ta.
*
Khúc hát Vị thành
Mưa bụi sớm mai ướt Vị thành
Liễu tươi quán trọ một màu xanh
Rượu này xin cùng nhau cạn chén
Dương Quan giã biệt khó gặp anh.
*
Nhà riêng ở núi Chung Nam
Trung niên chọn đạo vui chơi
Nam Sơn bên núi cuối đời bình an
Khi vui cất bước lang thang
Ung dung tự tại an nhàn như nhiên.
Nguồn cao nước chảy về miền
Ngắm mây muôn sắc bình yên trên trời
Rừng sâu gặp gỡ ai ơi
Bạn già đàm đạo quên nơi trở về.
— Trích từ “Vương Hữu thừa tập”
*
Đêm thu ở núi
Núi xanh vừa tạnh cơn mưa
Hoàng hôn thiên sắc giao mùa thu qua
Đồi thông vằng vặc trăng già
Đã cao suối chảy nguồn xa xăm về.
Khuất lùm trúc tiếng gái quê
Lao xao gợn sóng mái ghe khua đều
Hương hoa cỏ thắm đùa reo
Ngẩn ngơ công tử mãi theo luyến tình.
*
Hoa phù dung
Phù dung một đoá đầu cành
Đài hồng kheo sắc núi xanh một màu
Nhà ai bên cạnh khe sâu
Không người im ắng hoa sầu rụng rơi.
— Trích từ “Võng Xuyên tập”
*
Vương Duy (chữ Hán: 王维; 701 – 761), biểu tự Ma Cật (摩诘), hiệu Ma Cật cư sĩ (摩诘居士), là một nhà thơ, một họa sĩ, một nhạc sĩ, một nhà viết thư pháp và một chính khách nổi tiếng đời Thịnh Đường. Ông là người tinh thông về Phật học và theo trường phái Thiền tông. Trong Phật giáo có Duy Ma Cật kinh, là kinh sách do Duy-ma-cật dùng để giảng dạy cho môn sinh. Do tập trung về Phật giáo, ông được người đời gọi là Thi Phật (詩佛).
Cùng với Thi Tiên Lý Bạch, Thi Thánh Đỗ Phủ và Thi Quỷ Lý Hạ, Vương Duy có biệt danh Thi Phật đã tạo nên hiện tượng Thánh-Tiên-Phật-Quỷ cùng xuất hiện trong giai đoạn cực thịnh của thơ Đường. Ngày nay còn giữ được khoảng 400 bài thơ của ông, với phong cách tinh tế, trang nhã.
Bài viết bạn có thể quan tâm:
1. 365 ngày cho cuộc lữ hành – Ngày 3 tháng 2: Thơ thiền – Vương Duy