Mạnh Hạo Nhiên (Đường) (689 – 740)
Sớm xuân
Xuân nồng một giấc say sưa
Giật mình chim đã hót khua vang trời
Đêm qua gió rít mưa rơi
Hoa kia mấy đóa tả tơi lìa cành.
— Trích từ “Mạnh Hạo Nhiên Tập”
*
Cùng anh em lên núi hiện
Cuộc đời vốn dĩ lắm đổi thay
Đậm nhạt tình người chuyện xưa nay
Thắng cảnh danh lam lưu dấu tích
Vượt núi trèo đèo ta đến đây.
Nước cạn ra sông thả lưới giăng
Đầm sâu trời lạnh vẫn thường hằng
Dương Công bia đá còn in dấu
Ngẫm xem chuyện cũ dạ băn khoăn.
— Trích từ “Hồ Quảng thông chí”
*
Ngày thanh minh đàm đạo cùng Mai đạo sĩ
Dưới rừng nằm ngủ buồn xuân sang
Hé cửa nhìn ra sắc hoa tàn
Chim gọi đưa tin Mai đạo sĩ
Mời ta trà đạo, luận giang san.
Bếp lò vừa khai lửa luyện đan
Đào tiên chớm hé nụ hoa vàng
Nếu được nghìn năm còn trẻ mãi
Tiếc chi chén rượu cạn cười vang.
— Trích từ “Ngự định bội văn trai vịnh vật thi uyển”
*
Bài ca đêm về núi Lộc Môn
Hoàng hôn chuông đổ chùa xa
Bến sông huyên náo đò qua rộn ràng
Thế nhân vội vã sang ngang
Thuyền ta lướt sóng an nhàn Lộc Môn.
Trăng vàng sương tỏa càn khôn
Dấu chân in bóng Bàng Công nơi này
Tùng xưa cửa đá ai hay?
Vắng lặng tịch tĩnh đêm ngày ẩn cư.
— Trích từ “Toàn Đường thi”
*
Mạnh Hạo Nhiên 孟浩然 (689-740) tên Hạo, tự Hạo Nhiên, hiệu Mạnh sơn nhân 孟山人, là nhà thơ Trung Quốc thời nhà Đường, cùng thời với Trần Tử Ngang, thuộc thế hệ đàn anh của Lý Bạch. Lý Bạch rất hâm mộ học vấn, tài năng và nhân cách của Mạnh Hạo Nhiên.
Ông sinh ra tại Tương Dương, Hồ Bắc, từng làm quan, nhưng ông không thích hợp với đám quý tộc lạm quyền, ông lui về ở ẩn, tìm lấy đời sống tao nhã ở Long Môn quê nhà và trong cuộc du ngoạn ở những nơi xa, khắp vùng đất. Ông đi nhiều, thấy nhiều, mạch thơ đầy ắp những khí chất hồn hậu của thiên nhiên núi sông diễm lệ, hợp với tâm hồn trong sáng của mình. Địa danh xuất hiện trong thơ ông đặc biệt là núi Lộc Môn, những nơi ông đã từng ẩn cư trong một thời gian ngắn. Ông được biết đến qua bài thơ của Lý Bạch có tựa “Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng”.
Ông để lại 260 bài thơ. Bài Lâm Động Đình được nhiều người truyền tụng.