Không đau bệnh, lợi tối thượng
Sống biết đủ, giàu tối thượng
Sống chân thành, tình tối thượng
Cõi Niết bàn, vui tối thượng.

Không đau bệnh, lợi tối thượng
Sống biết đủ, giàu tối thượng
Sống chân thành, tình tối thượng
Cõi Niết bàn, vui tối thượng.
1. Chuyện bỏ phế lâu ngày không thể vội vàng mong giải quyết. 2. Thói hư tật xấu tích chứa lâu, đâu thể trừ bỏ trong phút giây. 3. Cuộc sống nhàn hạ không thể cứ mãi tham đắm. 4. Nhân tình thế thái chẳng mong hết thảy đều hòa. 5. Tai họa không vì mong thoát mà tránh được.
Bậc thiện tri thức nếu thông hiểu được năm điều này, thì chuyện xử thế sẽ chẳng có gì phải nhọc lòng nữa.
Nương vào thế gian vô thường như hoa trong gương, như trăng dưới nước, thì làm sao mà thân tâm an ổn được. “Khóc và cười” vốn là một nhưng quý ở chỗ chúng ta biết thức tỉnh mà xoay chuyển trong một niệm “ngộ hay mê” này.
Tôi quyết định như vậy, không phải tôi là kẻ quả tình bạc nghĩa, vì con đường Phật đạo đặc biệt lâu dài, đặc biệt gian nan, tôi ắt nên buông bỏ mọi thứ. Tôi buông xuống nàng, cũng buông xuống tầng tầng lớp lớp thanh danh và tài phú của thế gian. Những thứ này đều là mây khói qua mắt, không đáng lưu luyến. Chúng ta phải kiến lập Phật quốc chói sáng tương lai, nơi Tây Thiên Vô Cực Lạc Độ, chúng ta sẽ tương phùng nhé!
Hoằng Nhất Đại sư (1880 – 1942) tên thật là Lý Quảng Hầu, hiệu Thúc Đồng. Tổ sư đời thứ 11 của Luật tông; cùng với Hư Vân, Thái Hư, Ấn Quang được tôn xưng là “Tứ đại cao tăng Dân quốc”. Trước khi xuất gia, ông là một nhạc gia nổi tiếng, đồng thời là một người rất giỏi về thơ văn, từ phú, thư pháp, còn là chuyên gia giáo dục trong lĩnh vực mỹ thuật tạo hình.
Song điêu vừa rớt máu tươi
Vội vung cương ngựa xoay người bước đi
Chớ săn cánh nhạn Nam di
Biết đâu nhà có thơ ghi gửi người.
Ai bảo chim kia chẳng đáng thương
Cũng là da thịt cũng cốt xương
Khuyên người chớ bắt chim xuân ấy
Luống tội chim non khóc dạ trường.
Mạnh Tử khẳng định: “Khi trời muốn giao phó trọng trách cho người nào thì trước hết rèn luyện cho người đó: Khổ tâm chí, nhọc gân cốt, đói thể xác, túng quẫn tinh thần, làm gì cũng bị nghịch ý trái lòng; có vậy mới kích động hết cái tâm, kiên nhẫn tận cái tính, mới làm được những điều thiên hạ xưa nay chưa ai làm được”
Chẳng những là nhà chính trị, nhà tư tưởng kiệt xuất, Vương An Thạch còn là nhà Thiền học, Phật học nổi tiếng thời Tống. Ông đã để lại cho giới nghiên cứu Phật học đời sau những kiệt tác lý luận đáng chú ý như: “Duy Ma kình chú” (3 quyển) “Bàng nghiêm sơ giải” và “Hoa Nghiêm giải”.
Vương An Thạch (王安石 1021 – 1086), tự Giới Phủ (介甫), hiệu Bán Sơn Lão Nhân (半山老人), người ở Phủ Châu, Lâm Xuyên (nay là huyện Đông Hương, tỉnh Giang Tây), là một nhà văn nổi tiếng thời nhà Bắc Tống và cũng là nhà kinh tế, chính trị lỗi lạc trong lịch sử Trung Quốc.
Đừng khởi lên suy nghĩ gạt lừa, bởi còn có trời đất quỷ thần soi xét;
Đừng nói lời khinh miệt, nên biết cạnh mình luôn có ai đó lắng nghe;
Đừng làm việc khinh xuất, vì mọi việc đều liên quan đến tính mạng của bản thân và gia đình;
Đừng nhất thời hồ đồ, phải biết báo ứng phúc họa sẽ để lại cho con cháu đời đời về sau.
Sống tốt, tâm chính trực, tâm an nhiên, giấc mộng lành;
Hành thiện, trời thấu hiểu, đất chứng tri, thần thánh quý.
Cuộc sống là một quy luật vận động, có sáng, có tối, có trái, có phải, có nắng, có mưa. Sự vi diệu đó nằm trong chính vòng xoáy biến đổi này, mờ ảo một chút rồi sẽ tỏ rạng hơn, mờ ảo một cách đầy thú vị, khi tỏ rạng lại càng rực rỡ huy hoàng hơn.
Thế gian khắp chốn nghinh xuân
Đường xa nào ngại vướng chân lữ hành
Câu này tôi muốn khuyên anh
Lập thân xử thế vang danh cho mình.
Tô Thức (1036 – 1101), tự Tử Chiêm (子瞻), một tự khác là Hòa Trọng (和仲), hiệu Đông Pha cư sĩ (東坡居士) nên còn gọi là Tô Đông Pha, là nhà văn, nhà thơ, như pháp và học sĩ nổi tiếng thời Tống, Trung Quốc. Ông được mệnh danh là một trong Bát đại gia Đường Tống. Tiền Xích Bích phú và Hậu Xích Bích phú là hai viên ngọc của cổ văn Trung Hoa).
[Cha trời mẹ đất cho ta] phú quý hạnh phúc, là ưu ái cuộc sống của ta; cho ta nghèo hèn lo buồn, tức là cho viên ngọc quý để ta mài giũa vậy. Khi còn sống, ta cứ thuận (theo Trời – Đất) mà hành sự; còn khi ta chết, ta cảm thấy thanh thản an bình”.
Phạm Trọng Yêm (989-1052), tự Hy Văn, thụy Văn Chánh, là một nhà chính trị, nhà văn, nhà quân sự, nhà giáo dục thời Bắc Tống, Trung Quốc. Với triết lý ““Lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của thiên hạ”, Phạm Trọng Yêm là một trong những bậc tiền nhân là tấm gương sáng để người đời nay học tập và làm theo.
Xin hỏi: thường xuyên quan tâm lo lắng mọi bề, nếu như vậy thì niềm vui từ đâu mà có?
Xin thưa niềm vui ở chỗ: “Lo trước nỗi lo của thiên hạ, vui sau cái vui của muôn người!”
Nhân kỷ niệm ngày Bụt thành đạo (ngày 8/12 Âm lịch), vienngocquy.com xin được giới thiệu bài giảng “Con đường của Bụt” của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. “Con đường của Bụt” là Con đường giúp ta tránh những đau khổ, và không làm cho người khác đau khổ. Con đường làm cho ta có hạnh phúc, và giúp cho người khác có hạnh phúc.
Đạo trời có lúc: Đầy, khuyết, tăng, giảm; Quỷ thần có lúc: Được, mất, phúc, họa.
Từ xưa đã nghe thấy việc nhẫn nhịn và khiêm nhường tiêu trừ được mọi tai họa. Chứ chưa từng nghe việc nhẫn nhịn và khiêm nhường lại tạo mầm tai họa về sau?
Học quý ở chỗ chuyên tâm nghiên cứu, đạt đến sự uyên bác;
Ứng dụng quý ở chỗ thích hợp, sáng tạo không câu nệ cái cũ.
— Trích từ “Thái Hư Đại sư toàn thư”.